KỆ NGÔN VIII
HẠNH PHÚC XXVII
Khantī:
Nhẫn nại
Khantī, nghĩa
là nhịn nhục, nhẫn nại. Tuy nhiên, nó còn có nhiều nghĩa nữa - như thiêu đốt
các sức mạnh của tội ác, ngăn đón phiền não, vắng lặng phiền não, đè nén hoặc
diệt trừ các pháp ác, là đạo binh hùng để ngăn chặn tội lỗi phát sanh. Nhưng
đây tôi xin giải riêng nghĩa nhẫn nại thôi.
Nhẫn nại có nghĩa là nhịn nhục và nín thinh.
Khi người lớn la rầy kẻ dưới, dầu oan, kẻ
dưới vẫn nín thinh, không trả lời lại - hoặc vì lễ nghi hay vì quyền lợi, đó
không gọi là nhẫn nại, mà gọi là nín thinh, ráng mà chịu đựng vì sợ. Tạm gọi là
nín nhịn.
Trái lại, người dưới mình, nhỏ hơn mình, nói
nặng lời hay mắng chửi hoặc làm điều gì cho mình bực tức, đau khổ mà mình không
cãi lại hay không làm hại người ấy, như thế mới gọi là nhẫn nại.
Có câu Phạn ngữ dạy rằng: Bhāyahi
seṭṭhavaco khamatha saraṃ bhahetu pana sādisassa,nghĩa là: Người chịu đựng
sự la rầy mắng nhiếc của người có quyền chức lớn hơn mình, nín chịu với người
ngang hàng mình, thì chỉ mới là nín nhịn. Người nào nhịn chịu sự mắng nhiếc,
rầy la, khinh bỉ của người nhỏ hơn mình, mới thật sự được gọi là nhẫn nại.
Chú giải câu Phạn ngữ ấy có dạy rằng: Từ gọi
là nhẫn nại có nghĩa là chịu đựng được với những lời của kẻ dưới mình, như
người dưới quyền, nhỏ hơn, gia đình thuộc hạng bần tiện, người nhịn chịu được
với những hạng người ấy mới gọi là nhẫn nại cao thượng.
Sự nhẫn nại ví như lửa để thiêu đốt phiền
não. Đức Phật có dạy: Thiện nam, tín nữ nào thương kính Như Lai thì nên hành
hạnh nhẫn nại.
Phương ngôn có câu: “Gặp Phật thì tu,
gặp quỷ thì trừ”[1]. Gặp
Phật thì tu là chuyện đã đành, vì đức Phật dạy ta làm lành lánh dữ, và ta là
người muốn được an vui, thoát khổ, tức nhiên muốn gặp Phật, thì khi gặp là tu.
Còn câu gặp quỷ phải trừ, vậy phải trừ bằng phương pháp nào đây? Câu phương
ngôn nói trên đúng được một phần, là gặp Phật phải tu. Còn phần sau thì Phật
giáo không thể nhận được, vì chủ trương của Phật là bao giờ cũng nhẫn nhịn, nên
tôi xin chữa mệnh đề đi sau ấy là: Gặp quỷ ta cần phải tu nhiều hơn. Vì
quỷ là nhân làm cho ta uất ức, buồn phiền, mà ta nhịn chịu được như thế mới
thấy ta tu, nhược bằng gặp quỷ ta tranh đấu với quỷ, thì ta cũng là quỷ, chớ
không còn là người tu nữa. Theo tôi, những quỷ ấy là nhân thử thách coi ta tu
tới mức độ nào. Vì vậy, gặp quỷ là nhân ta đem ra thử lòng nhẫn nại của ta. Quỷ
không khác là lửa, mà hạnh nhẫn nại của ta quí như vàng. Nhờ có lửa ta mới có
dịp thử được tuổi vàng mà ta có.
+ Nhẫn nại có
ba tác dụng:
1. Titikkhā [2] khantī: Nhẫn
nại do oai lực của sự nhịn chịu. Ý nói đè nén tâm không cho tâm chạy theo tham
lam, sân hận, si mê, không cho phiền não biểu lộ ra ở thân, khẩu, ý. Người mà
nhẫn nại như thế thì làm cho giới được trong sạch.
2. Tapakhantī [3]: Sự
nhẫn nại là một thứ lửa thiêu đốt phiền não bậc trung bằng thiền định. Ý nói
người nhẫn nại hành thiền định để diệt trừ phiền não bên trong.
3. Adhivaṇakhantī [4]: Nhẫn
nại có công năng đè nén làm cho phiền não được vắng lặng; ngoài ra ta còn cần
tu tập thiền quán minh sát tuệ; nghĩa là do nơi minh sát tuệ ta mới có thể nhổ
tận phiền não ngủ ngầm - là thụy miên phiền não trong tâm - rất khó tận diệt.
+ Nhẫn nại có
ba đối tượng.
1. Nhẫn nại với sự khổ: Khi
bị bệnh tật, ốm đau hoặc bất kỳ vết thương nào tác động lên thân - người có
pháp nhẫn nại trong tâm thường không rên la, than oán gì cả.
2. Nhẫn nại với sức cực nhọc: Khi
làm việc nhiều, đổ mồ hôi, sôi nước mắt để kiếm bát cơm, mạnh áo; lúc phải gánh
vác những công việc nặng nề để đỡ đần cho vợ, cho con - người có pháp nhẫn nại
trong tâm thường không buồn phiền, than khổ, than cực - vẫn lặng lẽ làm xong
phận sự của mình.
3. Nhẫn nại với chuyện đau lòng: Khi
gặp sự trái ý nghịch lòng, người thân lâm cảnh bất hạnh, tử biệt sinh ly, gặp
phường bạc nghĩa vô ơn, những chuyện thương tâm - người có pháp nhẫn nại trong
tâm không hề than van oán trách, chẳng bao giờ nói xấu ai, phê phán ai, không
đem chuyện này nói với người kia, đem chuyện kia nói với người nọ.
Các câu nầy có ý nói khi bị người chê bai,
chỉ trích cũng chẳng hề quan tâm để ý, đúng theo Phật ngôn dạy: Tasseva
tena āpiyo yo kuddhaṃ patikujjhati: Người mà giận trả lại người giận
mình, người ấy càng tệ hơn người giận mình.
Sự nhẫn nại, nói theo pháp chính là adosa
citta, nghĩa là tâm vô sân, tâm nầy thuộc về tâm đại thiện, phạn ngữ
gọi là mahākusala.
Tâm không sân là trạng thái tâm không cột oan
trái, có sự không nóng nảy là phận sự, có sự mát mẻ là hiện tượng, có tâm rất
thận trọng là nhân, làm cho nhẫn nại phát sanh.
+ Thái độ của
nhẫn nại là:
1. Khi bị người chửi mắng - thì làm như không
hay, không biết gì hết.
2. Lại còn làm như không thấy cả người đang
chửi mắng mình nữa.
3. Chỉ biết để tâm vào thiền định.
4. Cố dạy tâm mình hay đè nén tâm không cho
vọng động vì những chuyện bên ngoài, ví dụ chuyện trái ý, nghịch lòng.
5. Cố đến gần thiện pháp và xa các ác pháp
như oan trái, oán thù, làm hại người...
6. Không hung dữ.
7. Không làm cho người bi lụy, nghĩa là không
làm cho ai bị tổn thương, đau đớn - chỉ biết làm cho người vui vẻ, hoan hỷ với
thiện sự.
8. Tâm được thư thả, nghĩa là luôn luôn có an
lạc.
Chú giải có dạy rằng: Tỳ-khưu có lòng nhẫn
nại là người có tánh cách làm như điếc, không cần nghe những lời của kẻ khác
khen hay chê, rầy la hoặc chửi mắng. Cao độ và cao thượng nhất là nhẫn nại với
tâm từ, tâm xả - như vị đạo sĩ tên Khantīvādī hằng cố gắng làm cho tâm mình
trong sạch bằng đức tánh nhẫn nại trước sự hành hạ tàn nhẫn của ông vua say
rượu độc ác. Hoặc như đại đức Puṇṇa mà đức Thế Tôn tuyên dương công đức là
người nhiều nhẫn nại nhứt trong hàng đại đệ tử Phật. Tôi xin lần lượt nhắc cả
hai sự tích ấy theo túc sanh truyện.
* Chuyện đạo sĩ Khantīvādī
“- Trong thời quá khứ, đức Bồ Tát sanh vào
dòng bà-la-môn Kunda ở tại kinh đô Bārāṇasī. Ngài xuất gia làm đạo sĩ ở tại
rừng Truyết Lãnh rất lâu. Ngày nọ, ngài về thành Bārāṇasī, nghỉ ngơi tại vườn
thượng uyển. Lúc ấy, đức vua Bārāṇasī tên là Kulāpu uống rượu say, dẫn phi tần
vào vườn thượng uyển chơi. Đức vua vì say nên ngủ quên. Các phi tần thấy vua
ngủ, nên tản mác đi chơi đây đó, gặp vị đạo sĩ đang ngồi dưới cội cây, mới rủ
nhau đến làm lễ và nghe pháp.
Sau khi tỉnh rượu, đức vua không thấy có một
phi tần nào hầu hạ bên cạnh, bực quá, ông xách gươm đi tìm. Khi ấy có một vương
phi được vua yêu nhứt, giựt lấy gươm của ông vì sợ ông nổi hung tính. Khi vua
đến cội cây, thấy đám phi tần đang cung kính vây quanh đạo sĩ và đang chăm chú
lắng nghe pháp - và dường như không thèm biết đến sự có mặt của ông. Đùng đùng
nổi giận, nhưng đức vua cũng cố kềm chế, cất giọng hỏi:
- Nầy ông đạo sĩ! Ông đang tu cái gì và ông
dạy người ta những cái gì?
- Tâu Đại vương! Bần đạo hằng tu theo pháp
nhẫn nại và cũng thường dạy về pháp nhẫn nại.
- Nhẫn nại là cái quái gì vậy?
- Thưa, nhẫn nại - nghĩa là gặp bất cứ trường
hợp nào cũng không sân hận, dù bị kẻ khác chửi mắng, đánh đập, khinh bỉ hoặc
nhục mạ mình thế nào chăng nữa.
Nghe vậy, đức vua mỉm nụ cười cay độc, nói
lớn rằng:
- Nếu vậy, ta sẽ xem ngươi có pháp nhẫn nại
ấy hay không!
Rồi ông truyền lệnh cho đám quân hầu:
- Tụi bây hãy đè vị đạo sĩ nầy xuống, lấy
roi, quất cho mạnh vào khắp chân tay, thân thể, mặt mũi ông ta - xem thử ông ta
có pháp nhẫn nại không?
Bọn vệ sĩ làm y theo lời. Nhìn vị đạo sĩ với
thân thể, y áo rách nát tả tơi, lấm lem, bê bết máu - đức vua gặng hỏi:
- Pháp nhẫn nại của ngươi như thế nào? Ngươi
có dám nhẫn nại nữa hay không?
Đạo sĩ đau đớn quá nhưng ráng ngồi dậy, bình
tĩnh đáp:
- Tâu Đại vương! Ngài đã lầm rồi! Pháp nhẫn
nại ấy nó không nằm nơi thịt, nơi da của bần đạo - thì dù cái thân này có bị
hành hạ cách mấy, bần đạo vẫn còn có pháp nhẫn nại như thường!
Nổi giận xung thiên, đức vua hét:
- Thế thì bọn bây hãy chặt tay, chặt chân của
hắn ta, xem thử hắn có còn nhẫn nại hay không?
Đám vệ sĩ y lời. Trông đạo sĩ bây giờ thật là
thê thảm. Tuy nhiên, khi tay chân đứt lìa, đạo sĩ vẫn không rên la, không quằn
quại - lại còn mỉm cười, gượng sức, nói:
- Đại vương lại lầm lẫn nữa rồi! Nhẫn nại ấy
nó không nằm nơi chân, nơi tay - mà nó nằm trong tâm của bần đạo!
Vua cảm giác mình bị chạm tự ái bởi ông đạo
sĩ lì lợm - tím mặt quát:
- Vậy thì hãy lắt mũi, xẻo tai... ông ta
luôn!
Rồi đức vua lại hỏi, đạo sĩ lại đáp, đại ý là
nhẫn nại nó không nằm nơi mũi, nơi tai, mà nó ở trong tâm!
Đức vua hoàn toàn thua cuộc, bất lực, tức
giận quá không biết làm sao - mới nện mạnh gót chân lên ngực đạo sĩ, rồi hầm
hầm bỏ đi.
Mặt quả địa cầu có sức chở nổi núi non, vạn
vật, nhưng không chở nổi tội lỗi của ông vua hung bạo nên nó nứt làm đôi. Đức
vua bị đất sụp chết, sanh vào A-tỳ địa ngục.
Sau khi vua ra đi, có một vị quan hầu vào lau
máu cho đạo sĩ và nói rằng:
- Bạch ngài! Nếu ngài có giận, xin ngài hãy
giận nhà vua làm khổ ngài, còn chúng tôi là những người vô tội.
Đạo sĩ điềm đạm nói:
- Các vị lầm rồi! Bần đạo không giận ai cả!
Nhà vua nào truyền chặt chân tay, cắt tai, xẻo mũi ta - bần đạo cầu xin đức vua
ấy được an vui, hạnh phúc và trường thọ. Vì chính nhờ đức vua hung bạo ấy, bần
đạo mới có thể tu tập pháp nhẫn nại này đến nơi đến chốn được!
Quí hóa thay, cao thượng thay là hạnh đức của
vị đạo sĩ; mặc dầu ngài đã chết, nhưng hương lành thanh khiết ấy vẫn còn lưu
lại đến hôm nay. Ngài đã nêu gương quí báu về đức nhẫn nại để ngàn sau, chúng
sanh soi đường.
Vậy, thế gian này, ai muốn biết rằng mình có
tu hay không, là phải biết thử lửa trong những trường hợp dễ phát sanh tâm tham
lam, sân hận... Gặp chuyện đáng tham, tâm ta thế nào? Gặp chuyện đáng sân, tâm
ta thế nào? Đây chính là cơ hội cho ta tu tập, cơ hội để nhìn ngắm cái tâm của
ta! Nếu muốn tu theo pháp nhẫn nại, phải có trí nhớ, nhớ rằng: Những trường hợp
làm lung lạc, khó khăn, trở ngại hoặc đau đớn, thương tổn đến ta - đó là những
cơ hội thử thách lòng ta, coi ta tu đến mức độ nào, ta nên nhớ dùng nhẫn nại để
thắng những thử thách ấy.
Người có đủ lòng nhẫn nại là người hằng có đủ
khí cụ nội tâm vững mạnh để thắng phục những kẻ thô lỗ, hung ác, như đại đức
Puṇṇa trong túc sanh truyện sau đây:
* Chuyện đại đức Puṇṇa
Có một người phú thương tên Puṇṇa ở xứ
Sunāparanta đi đến kinh đô Sāvatthī (Thất-la-phiệt), được hầu Phật và nghe
pháp. Phát tâm trong sạch muốn xuất gia, nên ông gọi người quản lý đến, bảo đem
hết của cải của ông và trao lại cho em là Cūlapuṇṇa - rồi ông xuất gia và học
đề mục tham thiền nơi đức Thế Tôn. Tại thành Thất-la-phiệt, ông cảm giác sẽ
không được kết quả tốt do nơi đây phong thổ không thích hợp; ông muốn đi về xứ
Sunāparanta - sinh quán của ông - nên vào hầu đức Phật xin đi về xứ đó.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Thầy muốn đi đến xứ nào?
- Đệ tử xin đi xứ Sunāparanta.
Quán căn cơ, đức Thế Tôn biết rõ rằng, ông ta
là người có rất nhiều đức nhẫn nại - có thể vượt qua nhiều thử thách cam go,
trở ngại trên bước đường hành hóa - nên ngài đã cố ý hỏi để tỳ-khưu Puṇṇa trả
lời, trở thành một pháp thoại để giáo giới hạnh nhẫn nại đến tứ chúng.
Trong tạng kinh bộ Majjhimanikāya, bài kinh Puṇṇavādasutta
có thuật rằng:
Đức Thế Tôn hỏi:
- Nầy Puṇṇa! Người xứ Sunāparanta rất hung
ác, thô lỗ, có đức tin với ngoại giáo! Nếu người xứ ấy chửi ông, doạ nạt ông,
nhục mạ, phỉ báng ông - thì ông có phương pháp chi đối phó với chúng không?
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu người xứ Sunāparanta
chửi mắng, doạ nạt, nhục mạ, phỉ báng đệ tử - đệ tử sẽ nghĩ rằng: Người xứ
Sunāparanta tử tế quá, thật tử tế - vì họ đã không đánh đệ tử bằng tay, đạp để
tử bằng chân! Đệ tử sẽ chúc phúc an lành đến cho họ!
- Này Puṇṇa! Nếu người xứ Sunāparanta họ đánh
đập ông bằng tay, bằng chân - trong trường hợp này ông sẽ đối phó với họ như
thế nào?
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu người xứ Sunāparanta
đánh đập đệ tử bằng tay, bằng chân - đệ tử sẽ nghĩ rằng: Những người xứ
Sunāparanta thật là tử tế, thật là tốt - vì họ chưa chọi đệ tử bằng gạch và
bằng đá!
- Nầy Puṇṇa! Nếu người xứ Sunāparanta chọi
ông bằng gạch, bằng đá - thì ông sẽ xử sự với họ ra sao?
- Đệ tử vẫn cảm ơn họ vì họ còn là người khá
tử tế, vì họ đã không đánh đệ tử bằng cây, bằng đùi, bằng gậy!
- Nếu họ sử dụng cây, đùi, gậy để đánh ông?
- Đệ tử vẫn không sao, vẫn cảm ơn họ vì họ đã
không thô bạo dùng đao và dùng kiếm để đối phó với đệ tử.
- Nếu họ dùng đao để chém, dùng kiếm để đâm
thì ông có còn nghĩ tốt về họ như thế nữa hay chăng?
- Đệ tử vẫn cảm ơn họ vì họ chỉ đâm và chém
chứ chưa giết chết đệ tử.
- Còn giả dụ như họ giết chết thì sao?
- Trường hợp họ giết chết đệ tử, đệ tử càng
cảm ơn họ đã giải phóng giùm đệ tử cái tấm thân bất tịnh này. Chư thanh văn đệ
tử của đức Thế Tôn, nhiều vị quán 32 thể trược, họ đã từng chán nản, ghê tởm
cái thân này - trong thời gian tu tập, họ đã muốn buông bỏ đi cái gánh nặng mệt
mỏi của thân xác - nhưng nào có buông bỏ được! Còn đệ tử may mắn làm sao -
người xứ Sunāparanta đã làm được việc khó khăn ấy - là giúp đệ tử quăng bỏ cái
thân hôi hám, nặng nề này, bạch đức Thế Tôn!
Đức Thế Tôn tỏ lời hoan hỷ rằng:
- Lành thay! Lành thay! Trong trường hợp nào
thì Puṇṇa vẫn giữ được tâm không hận, không sân - cho dù sanh mạng bị tướt đoạt
đi vẫn nghĩ tốt cho người khác! Đấy được gọi là nhẫn nại cao thượng - vì sự
nhẫn nại này khó tu, khó hành: Là nhẫn nại với tâm từ và tâm xả! Này tỳ-khưu
Puṇṇa! Ông hãy đến xứ Sunāparanta mà hành hóa! Người dân thô lỗ, hung bạo, có
đức tin với ngoại giáo kia sẽ được ông cảm hóa và ông sẽ hoằng pháp thành công
ở miền biên địa ấy”.
Theo chuyện nầy ta thấy ngài Puṇṇa nhẫn
nại trong bảy trường hợp: Chửi, doạ nạt, mắng nhiếc; đánh bằng tay chân; chọi
bằng đá gạch, đánh bằng đùi gậy; chém đâm bằng đao kiếm; giết chết. Nhẫn
nại cao cả như thế mới đáng gọi là sa-môn, là tỳ-khưu, là Phật tử! Đúng như
tiên tri của đức Phật, nhờ đức nhẫn nại mà tỳ-khưu Puṇṇa đã
chinh phục được tất cả lòng người trong xứ ấy. Những người chửi mắng, dọa nạt,
phỉ báng ngài đều trở nên đệ tử thuần thành của ngài. Riêng ngài, nhờ pháp nhẫn
nại hỗ trợ nên đã đắc quả A-la-hán tại xứSunāparanta ấy.
Chúng ta hãy noi theo gương ngài mà vâng giữ
hành theo pháp nhẫn nại.
Hạnh nhẫn nại mà được hoàn toàn cao quí, cũng
nhờ có hành, nếu ta ở chung với bậc thiện nhơn thì có ai làm cho ta buồn giận
mà có nhẫn nại. Nói vậy nhưng tôi không có ý xúi giục quí vị thân cận với người
ác - mà để quí vị nhớ, khi nào gặp quỉ thì ráng mà nhẫn nại, đừng chống đối với
nó, một là mất sự nhẫn nại, hai là gây thêm nhiều oan trái oán thù, thật phiền
lắm vậy.
Người mà có đủ đức nhẫn nại như đại đức Puṇṇa
mới là người đáng làm hướng đạo về phương tiện nhẫn nại, đáng làm gương lành
cho chúng ta soi và hành theo. Gương nhẫn nại của ngài có hai điều đặc sắc:
1. Ngài là bậc hy sinh cho giáo pháp chơn
chánh, mặc dầu biết rằng Sunāparanta là nơi khó khăn nhiều rắc
rối.
2. Một khi đã xuất gia là nhất tâm hướng đến
giác ngộ, giải thoát, ngài không nài lao khổ, miễn có đất tu tập và truyền bá
được chánh pháp.
Chú giải của một số bài kinh liên hệ đến nhẫn
nại, ta có thể liệt kê ra đây:
- Sự nhẫn nại là sự nhịn nhục chịu đựng mọi
sự việc, không hề làm hại kẻ khác, không làm cho kẻ khác bi lụy buồn khổ.
- Sự nhẫn nại là sự nhịn chịu với sự làm ác,
nói ác của kẻ ác đối với mình mà không hề oán giận. Vì phần đông nhịn được,
nhưng sự bực tức vẫn còn trong tâm. Vậy ta cần phải có trí nhớ để quan sát lòng
ta coi lòng ta có sự bực tức không, nếu còn thì ta biết rằng ta chưa đủ đức
tính nhẫn nại, chỉ mới học được sự im hơi lặng tiếng thôi. Vì lòng oán hận là
mầm oan trái hãy còn trong tâm, đây là phiền não ngủ ngầm trong tâm. Nếu khi
nhẫn nại mà ta thấy lòng ta mát mẻ, vui vẻ thì ấy mới thật là nhẫn nại. Người
làm chủ tâm mình được, thì ngoài mặt như trong lòng, không chút giận hờn, oán
ghét mà trái lại, vẫn vui vẻ như thường, nhứt là rất hài lòng vì thấy sự tu tập
của mình được tiến hoá, không bị trần cảnh chế ngự, như thế mới là người làm
chủ tâm.
- Nhẫn nại gọi là nhịn nhục, ý nói sự nhịn
chịu với những điều sỉ nhục của kẻ khác đối với mình mà mình không hề oán giận...
- Nhẫn nại là sự nhịn chịu với cả sự khó
khăn, như hai vị đại đức trong hai tích sau đây:
“- Có vị đại đức hành đạo tại núi tháp
Cetiyapabbata. Khi ấy nhằm mùa nắng nóng, trời thật nóng nhưng ngài vẫn tự
nhiên ngồi tham thiền giữa nơi trống trải, mồ hôi đổ ra. Chư đệ tử thấy như vậy
nóng lòng, nên đến bạch xin ngài vào ngồi trong mát.
Ngài đáp: “Vì sợ nóng nên ta mới ngồi giữa
nóng như thế nầy”. Chư đệ tử không hiểu, ngài nói tiếp: “Lửa ở địa ngục nó nóng
gấp cả hằng tỷ lần cái nóng nầy, các con ạ!” Nhờ vậy, vị đại đức đã đắc quả
A-la-hán ngay tại chỗ nóng ấy”.
Đây là gương nhẫn nại về sự nóng.
Lại có tích của vị đại đức khác.
“- Khi vị đại đức nầy đi khất thực thiếu cơm
ăn cả ba ngày, bị cái đói dày vò, hành hạ làm cho ngài rất khổ sở, nhưng không vì
lẽ ấy làm cho ngài ngã lòng. Ngài đã khởi lên một suy tưởng như vầy: Khi ta còn
luân hồi trong cõi sa-bà nầy, thì đã không biết bao nhiêu lần ta sanh làm ngạ
quỉ đói, phải bị đói triền miên, gấp triệu, gấp tỷ cái đói này!
Nghĩ thế xong, tâm ngài rất kinh sợ sự khổ
đau trong vòng sinh tử luân hồi; ngài đã dùng minh sát tuệ quan sát vô thường,
khổ não và vô ngã nên đắc A-la-hán quả”.
Đây là cái gương nhẫn nại vì cái đói. Nó còn
ngụ ý khuyên ta không nên để cho những sự khổ bên ngoài như đói, khát, nóng, lạnh...
chi phối mà bỏ dở sự tu hành, phải biết nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh, dẫu khó
khăn, khó chịu đến đâu.
Những thành tích vẻ vang của các bậc đại đức
ấy giúp cho ta thấy rằng: Các vị tiền nhân của chúng ta đã được lợi ích nhờ đức
nhẫn nại. Vì vậy nên đức Phật dạy nhẫn nại là một hạnh phúc mà toàn thể chúng
sanh đều phải mong ước.
Trong túc sanh truyện Sarabhaṅga, đạo sĩ
Sarabhaṅga có phát biểu thế nào là nhẫn nại cao thượng:
- Người dứt được lòng sân hận thì không bao
giờ có sự phiền trách, than van. Những người nhịn chịu được sự chê bai, khinh
bỉ của kẻ khác, các bậc trí thức gọi là nhẫn nại cao thượng.
- Người nhận chịu được những lời rầy la của
người lớn hơn mình là vì lẽ sợ; nhịn chịu được lời nói của người ngang bằng
mình là vị sợ oan trái oán thù; chỉ có người chịu nhịn được với những lời lẽ
của kẻ nhỏ hơn mình, hèn kém hơn mình, các bậc trí thức mới hằng ca tụng ngợi
khen người ấy là người nhẫn nại cao thượng.
Vậy nhận chịu được những lời nói và hành động
của người nhỏ hơn mình mới gọi là nhẫn nại. Có một sự tích kể về trường hợp
này:
“- Khi xưa thường có trận giặc giữa A-tu-la
thiên và chư thiên cõi trời 33. Lần ấy, đức Đế Thích thắng trận, bắt A-tu-la
vương đem về trói lại cột cờ. A-tu-la vương chửi mắng đức Đế Thích rằng: “Ngươi
là kẻ cướp, là kẻ hung ác, ngươi là bò, là lừa, là lạc đà, là loại địa ngục, là
súc sanh; ngươi không còn đường sanh về cõi trời nữa, chỉ còn sanh vào ác đạo
thôi. Không phải ngươi thắng hoài đâu, ngày nào A-tu-la thắng, khi ấy ta sẽ cột
ngươi như thế nầy, để ngươi nằm trước A-tu-la và ta sẽ đánh ngươi.
Khi ấy có một vị thiên tên Matalī hỏi đức Đế
Thích rằng: Đại vương để cho bọn A-tu-la chửi mắng như thế nầy, vì sợ hay vì
nhẫn nại?
- Không phải vì sợ A-tu-la vương mà ta nín
nhịn đâu. Ta đang thử tâm nhẫn nại của ta! Nhẫn nại mới là pháp cao quí,
cao thượng. Kẻ nào có sức mạnh (các thứ thế lực) mà lại nhẫn nại đối với kẻ
dưới tay mình, yếu thế hơn mình mới là cao quí, cao thượng. Vì kẻ yếu hơn mình,
mình có thể hiếp đáp được trong mọi trường hợp, nếu ta muốn”.
Ý đức Đế Thích nói rằng: A-tu-la vương trong
tay ngài, muốn hành hạ cách nào cũng được, nhưng không, ngài đã tu tập hạnh
nhẫn nại.
Chú giải có dạy rằng: Làm lợi ích cho ai cũng
không bằng làm lợi ích cho mình, mà phương pháp làm lợi ích cho mình cao quí
nhứt là nhẫn nại.
Đức Phật dạy trong Pháp cú kinh rằng: “Người
không tức giận, chịu đựng lời khiển trách, roi vọt và mọi hình phạt - vẫn điềm
nhiên dùng hạnh nhẫn nhục làm quân lực để bảo vệ mình - người như vậy Như Lai
gọi là bà-la-môn! » [5]
Chú giải của câu Phật ngôn nầy dạy rằng:
Người nhịn nhục được với tất cả sự khổ nhục, đưa đến không buồn giận vì có
nhiều lòng nhẫn nại, đức Phật gọi là người có một đạo quân tinh nhuệ đánh đuổi
được tội lỗi một cách dễ dàng.
Chú giải bài kinh Vasettha còn nói: Người
không giận trả lại người sân hận là người thắng được trận giặc mà khó có người
thắng được.
Theo câu này còn có ý nói rằng: Dùng sự giận
dữ để đáp trả lại sự giận dữ, chứng tỏ ta là kẻ hèn yếu, nhu nhược. Người muốn
có sự nhẫn nại, trước hết nên tập trí nhớ để kềm chế tâm và quan sát tâm, đừng
để tâm đi vượt quá phạm vi của nó là nhẫn nại.
Nhờ có trí nhớ nên ta không quên mình, không
bị bên ngoài chi phối. Nên nhớ rằng người đang giận dữ là người thiếu bình
tĩnh, đôi khi mất cả lương tri, nên mới la lối hay làm những gì mà khi họ không
thể làm, khi chưa giận dữ. Như thế họ không khác nào người điên.
Đức Phật có dạy: Sự nhẫn nại sẽ thắng được
khó khăn trên đời. Sự nhẫn nại ví như lưỡi gươm rất bén, cắt đứt được tất cả
trở ngại trên đường đời cũng như trong đường đạo.
+ Xin nhắc lại
nhẫn nại có 5 quả báo:
1. Người biết nhẫn nại là người có rất nhiều
người thương quý mến yêu.
2. Người biết nhẫn nại là người không có
nhiều oan trái.
3. Người biết nhẫn nại là người không có
nhiều tội lỗi.
4. Người biết nhẫn nại là người không hoảng
loạn, si mê trong khi sắp lâm chung.
5. Người biết nhẫn nại là người được sanh về
cõi người, trời sau khi chết.
Có rất nhiều Phật ngôn nhắc nhở người không
nên sân hận và nên nhẫn nại. Tôi xin nhắc lại câu Pháp cú ở trên bằng Pāḷi để
quí vị học thuộc nằm lòng về hạnh nhẫn nại:
“- Akkosaṃ vadhabandhañca aduṭṭho yo
titikkhati
Khantībalaṃ balāṇīkaṃ tam ahaṃ brūmi
brāhmaṇaṃ!”
Cuối cùng,
+ Sự nhẫn nại
làm cho người được những hạnh phúc là:
1. Là phước vĩ đại.
2. Tạo nên sự đoàn kết.
3. Có rất nhiều người thương mến.
4. Không có sự kinh khủng là oan trái oán
thù.
5. Được hưởng cao quý.
6. Được ba điều lợi ích.
7. Được đồ trang điểm rất quý giá.
8. Gọi là bậc trí thức.
9. Là người làm tâm mình an trụ.
10. Là người ôn hoà.
11. Là người có tứ vô lượng tâm.
12. Là người chắc chắn sẽ đến Niết-bàn.
HẠNH PHÚC XXVIII
Sovacassatā
: Nết hạnh người dễ dạy
(Thiện
ngôn, lời nhu hòa)
Nết hạnh người dễ dạy sẽ giảng về ba điểm.
1. Hạng người dễ dạy
2. Phương pháp hành cho ra người dễ dạy.
3. Hạnh phúc sanh lên do sự dễ dạy.
(1) Hạng người dễ dạy:
Tính cách của hạng người này là, khi có ai
dạy cho điều hay lẽ phải, họ không tỏ vẻ buồn giận hay làm như không nghe, trái
lại, tỏ vẻ hết lòng biết ơn người đã chỉ bảo lỗi cho mình.
Người đời không ai tránh khỏi sự lầm lỗi, may
có người nhắc nhở thì ta phải ráng ăn năn, hối cải mới tốt hơn được, mới sống an
vui được.
Các bậc trí thức nói về người dễ dạy là họ có
một bửu vật để nương nhờ. Đúng vậy, trong bài kinh Sattamasutta bộ
Anguttaranikāya, đức Phật có dạy rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Các thầy nên là
người dễ dạy, phải biết nhẫn nại, vui lòng vâng giữ lời chỉ dạy. Đây là hạnh mà
các thầy nên nương nhờ”.
Câu Phật ngôn nầy cũng hàm nghĩa là: Trong
lúc đã phạm vào điều quấy, bị người chỉ trích thì không nên buồn, không nên cãi
lại. Đấy mới là bậc trí.
Trong bài kinh Ammānasutta đại đức
Mục-kiền-liên có nói về người dễ dạy và không dễ dạy như sau:
“- Có vị tỳ-khưu trình bày rằng, xin quý ngài
vui lòng chỉ bảo cho những điều sai lầm để lánh, điều chánh để tôi hành! Ngoài
miệng, vị ấy nói như vậy, nhưng khi có người chỉ bảo thì không tuân theo - đây
là hạng người không dễ dạy. Còn người dễ dạy thì không yêu cầu các bậc trí thức
chỉ dạy, nhưng khi nghe thấy điều xấu xa của kẻ khác thì cố xa lánh những điều
xấu ấy, cố hành điều lành, người ấy cũng gọi là người dễ dạy”.
Người dễ dạy có hai hạng: Một hạng đáng khen
và một hạng đáng chê! Tại sao vậy? Tại sao dễ dạy mà có hạng đáng khen, hạng
đáng chê? Đức Phật có thuyết rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Có vị tỳ-khưu dường
như là người dễ dạy; nhưng ông ta dễ dạy là để mà hưởng những lợi lộc như y
phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men... Như Lai không gọi vị ấy là người dễ dạy, vì
nếu vị ấy không có y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men, thì sẽ không dễ dạy!”
Đức Phật còn giảng tiếp:
“- Người làm bộ vâng lời, luôn luôn tỏ ra mềm
mỏng, lễ độ, dễ dạy - nhưng là để thiện nam tín nữ kính trọng, phát tâm trong
sạch để cúng dường tứ sự - đây được gọi là dễ dạy nhưng có mưu đồ, chứ thật ra
vị ấy không có thực tâm! Chỉ có vị tỳ-khưu nào không vì lợi lộc, danh vọng - họ
dễ dạy để học pháp, dễ dạy để diệt trừ những xấu ác như cứng đầu, kiêu căng,
ngã mạn... Như Lai mới gọi là người có tánh dễ dạy thật sự. Vậy các thầy nên
nhớ rằng, là tỳ-khưu, chúng ta chỉ biết cúng dường pháp, thực hành pháp, kính
trọng pháp; nói cách khác, dễ dạy là do pháp bảo, bởi pháp bảo - chứ không phải
dễ dạy là vì danh vọng và lợi dưỡng!”
Người hết lòng cung kính giáo pháp, không ỷ
mình giàu có, sang trọng, quyền chức, niên cao, kỷ trưởng mà cứng đầu, kiêu
căng, ngã mạn - trái lại, rất lễ độ, mềm mỏng, dễ dạy; những người ấy gọi là
người biết hành theo pháp giải thoát, như trong tích của ngài Rādha sau đây:
“- Ngài Rādha trước kia là bà-la-môn, sau
xuất gia theo Phật giáo, nhưng vì già không đủ trí nhớ để hành theo phạm hạnh.
Vì ông già nên thường nghĩ đến đời sống thừa của ông còn rất ít, nên ông cố hết
sức hành đạo, luôn luôn vâng theo lời dạy bảo của đại đức Xá-lợi-phất, nên sau
ba tháng xuất gia ông đắc A-la-hán quả.
Đức Xá-lợi-phất dẫn ngài về lễ Phật.
Đức Thế Tôn hỏi: Nầy Xá-lợi-phất! Vị đệ tử
già của ông có dễ dạy không?
- Bạch đức Thế Tôn! Ông Rādha tuy già nhưng
thật là dễ dạy, một khi đệ tử chỉ bảo điều nào thì vâng giữ hành theo không
buồn giận hay tỏ vẻ bất bình gì cả.
Nhân dịp ấy, đức Thế Tôn mới thuyết rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Đã là một vị
tỳ-khưu, lẽ cố nhiên phải tỏ ra là người dễ dạy như thầy Rādha! Nhờ dễ dạy,
thầy Rādha đã làm xong phận sự của mình - thì có khác nào người dạy bảo ta đã
chỉ cho ta cả một kho vàng quý báu!”
Ngoài ra, người dễ dạy lại còn thoát khỏi tai
ương, hoạn nạn, như túc sanh truyện sau đây:
“- Có năm trăm người lái buôn, sắm các vật
liệu để đi buôn xa, phải trải qua biển lớn và đi ngang qua một hòn đảo là nơi ở
của nhiều Dạ Xoa cái. Khi có ghe thuyền bị đắm, Dạ Xoa vớt người lên đem về,
trước là thỏa mãn tình dục, sau ăn thịt. Đi đến hòn đảo ấy, ghe của năm trăm
người bị đắm, Dạ Xoa vớt cả về đảo.
Dạ Xoa nói: Hôm nay thật là may mà chúng tôi
vớt được các người về, chồng chúng tôi cũng là lái buôn, trước đây ba tháng, đi
buôn bị đắm ghe chết hết, chúng tôi ở đây thiếu người bầu bạn, vậy các người ở
lại với chúng tôi nhé?
Những người ấy vì ham mê sắc đẹp, nên không
ngần ngại, nhận chịu liền.
Ăn ở với nhau được mấy hôm, chợt ông thuyền
trưởng tinh ý, lấy làm lạ, vì mỗi đêm, Dạ Xoa vợ ông đi vắng một lúc mới về.
Ông sanh nghi mới rình coi thì bắt gặp vợ ông hiện nguyên hình là Dạ Xoa ăn
thịt người.
Kể lại câu chuyện và ông khuyên tất thảy bạn
bè hãy tìm cách trốn đi - vì ở đây, có ngày sẽ bỏ mạng! Trong số 500 người, chỉ
có một nửa là người dễ dạy, biết nghe lời khuyên bảo của thuyền trưởng; số còn
lại, thuộc loại cứng đầu, lại đang mê man đắm say trong trần dục nên không chịu
nghe lời!
Duyên may đã đến. Có một con ngựa thần tên là
Valāhaka ở tại rừng Tuyết Lãnh có thần thông bay đến đảo chơi - gặp 250 người
muốn về đất liền, ngựa sẵn lòng giúp họ trở lại quê hương!
Thế là hạng người dễ dạy được an toàn - còn
số người còn lại, do cứng đầu, đắm say sắc dục nên bị chôn thân trong bụng Dạ
Xoa cái”
Kể xong câu chuyện, đức Phật dạy rằng: Nầy
các thầy tỳ- khưu! 250 người lái buôn cứng đầu, khó dạy, không biết nghe lời
phải, lại đắm say sắc dục nên bị hại! Số 250 người lái buôn còn lại, nhờ dễ
dạy, nhờ biết nghe lời phải nên được an toàn sanh mạng! Cũng tương tợ vậy, nếu
trong hàng tứ chúng có người cứng đầu, khó dạy, không nghe theo lời giáo huấn
của Như Lai thì sẽ bị khổ trong bốn đường ác. Nếu ai là người dễ dạy, biết vâng
giữ và thực hành theo lời giáo huấn của Như Lai, thì sẽ có bốn điều lợi ích là:
Được sanh làm người, trời, phạm thiên và luôn cả Niết-bàn!
Trong lời dạy trên đây, đức Phật nói đến hàng
tứ chúng. Riêng bài kinh Chattasutta trong bộ Anguttaranikāya lại cố ý nói đến
bậc xuất gia: Các thầy tỳ-khưu khó dạy, tâm tánh cứng đầu khó dạy - không
nhẫn nại, không nghe lời giảng dạy. Hai điều này làm cho Phật giáo bị
suy đồi. Những tỳ-khưu nào dễ dạy, chính những vị ấy là những người biết kính
trọng Pháp Bảo thật sự, đã làm cho Phật giáo tăng thịnh và trước sau gì họ cũng
nếm được hương vị giải thoát.
Nếu ta muốn biết ai là người dễ dạy thật sự
thì hãy coi hành động của họ:
a. Nghe lời giáo huấn một cách kính trọng.
b. Vâng giữ hành theo thiện pháp. Ý nói, hiểu
rằng mình xấu quấy, cố dứt bỏ cái xấu quấy và thực hành theo điều tốt, điều
lành - và không nghĩ rằng mình làm như vậy để được mọi người khen tặng.
c. Biết ơn người chỉ bảo. Ý nói, ngoài việc
thực hành theo lời dạy bảo của các bậc trí thức, họ còn biết ơn, không luận
người dạy ấy trẻ hay già - hoặc hạng người nào, miễn là chỉ bày điều hay, điều
tốt và con đường giải thoát cho mình mà thôi.
(2) Làm thế nào mới trở nên người dễ dạy?
Nếu muốn trở nên người dễ dạy thì phải dứt bỏ
16 điều phiền não trong tâm mình. 16 điều phiền não ấy, đức Thế Tôn có dạy
trong bộ kinh Majjhimanikāya:
+ 16 điều ấy
là:
1. Không tham muốn đê tiện.
2. Không tự cao, không chê bai kẻ khác.
3. Không sân hận, không dễ bị sân hận.
4. Không oán hận.
5. Không chửi mắng kẻ khác.
6. Không cãi lại.
7. Không cãi lại khi bị tố cáo.
8. Nếu là nguyên cáo họ cũng chẳng cáo bị
cáo.
9. Người bị cáo cũng không thưa lại nguyên
cáo.
10. Người bị cáo không giấu lỗi, nếu có - và
cũng không chối cãi gì.
11. Người bị cáo cũng chẳng đôi co hỏi chứng
cứ.
12. Không nên quên ơn các bậc có ơn đã nhắc
nhở, chỉ bảo lỗi lầm cho mình.
13. Không ganh tị.
14. Không khoe mình.
15. Không cứng đầu.
16. Chưa thấy bằng mắt thì không tin.
Mười sáu điều này ai có được trong tâm thì
hằng đi đến nơi hạnh phúc, an lạc.
+ Người dễ dạy
có 11 thái độ:
1. Không lẩn tránh khi có các bậc trí thức
răn dạy.
2. Không phải chỉ nghe mà thôi, còn phải thực
hành theo lời dạy bảo nữa.
3. Không bao giờ để tâm oán hận hay thù ghét
các bậc trí thức dạy mình.
4. Vui lòng với những lời giảng dạy.
5. Hết sức kính trọng lời giảng dạy và còn
biết trân trọng lắng nghe.
6. Thái độ luôn lễ phép, cung kính.
7. Có lòng phấn khởi và thỏa thích khi được
nghe lời giáo hóa.
8. Không hề hành sái với lời giảng dạy.
9. Thích thực hành đúng theo chánh pháp.
10. Là người nhẫn nại.
(3) Người dễ
dạy đem đến cho mình những hạnh phúc sau:
1. Là pháp mà mình nương nhờ được.
2. Là người mà các bậc trí thức rất vui lòng
dạy bảo.
3. Là nguyên nhân dứt bỏ được tội lỗi và làm
cho phước thiện tăng trưởng.
4. Là nguyên nhân làm cho người khác thương
mà chỉ dạy chánh pháp.
5. Là người ở gần với sự đắc đạo quả.
6. Là nguyên nhân đắc được ba điều an
lạc [6].
HẠNH PHÚC XXIX
Samaṇānañca
dassanam: Nết hạnh được thấy, được gặp các bậc sa-môn
(Yết kiến bậc sa-môn)
Vấn đề sa-môn xin giảng về ba điểm:
1. Người thế nào được gọi là sa-môn?
2. Thế nào là được thấy, được gặp các bậc
sa-môn?
3. Được thấy, được gặp các bậc sa-môn thì sẽ
được những lợi lạc gì?
Phạn ngữ samaṇa người ta
thường dịch âm là sa-môn có nghĩa là thanh tịnh hay trong sạch. Thầy sa-môn là
người xa thập ác, không làm hại người hay vật, không ganh tị, là người có thân,
khẩu, ý trọn lành.
Tóm lại, sa-môn nghĩa là người không còn
phiền não, hay phiền não đã vắng lặng rồi.
Thầy sa-môn là người hay quán tưởng, quán
minh để thấy rõ chân lý, là người đang hành trình trên con đường của các bậc
thánh nhơn.
Những người tự xưng mình là sa-môn nhưng
không có
những pháp của vị sa-môn, những người ấy ví
như kẻ cướp rất lợi hại mà nhà chức trách không thể tìm ra tung tích để truy
bắt được. Vì tướng cướp ấy không có khí giới trong tay mà chỉ có lớp áo tu bên
ngoài, họ ẩn trốn trong tăng chúng.
Nơi đây tôi xin đem mấy câu Phật ngôn dạy
trong kinh Pháp cú hầu quí vị làm tài liệu:
“- Na muṇḍakena samaṇo
abbato alikaṃ bhaṇaṃ
Icchālobha samāpanno
samaṇo kiṃ bhavissati”. (PC 264)
Nghĩa là: Không phải do nơi cái đầu cạo trọc
mà người không giới hạnh, người vọng ngữ trở thành sa-môn. Làm thế nào một
người đầy tham vọng trần tục và đắm chìm trong ái luyến lại có thể trở thành
sa-môn?
Lại có câu:
“- Yo ca sameti pāpāni
aṇuṃ thūlāni sabbaso
Samitattā hi pāpānaṃ
samaṇo ti pavuccati”. (PC 265)
Nghĩa là: Người đã trọn vẹn khắc phục các
hành động ác lớn nhỏ, người ấy xứng đáng được gọi là sa-môn vì họ đã vượt khỏi
mọi điều ác [7].
+ Đây là pháp
để chúng ta nhận định vị sa-môn:
1. Upasametikileso: Các
phiền não trong lòng đều đã được vắng lặng.
2. Bhavitvākāyavacīcittappañño: Thân
khẩu, ý và trí tuệ đã được tiến hoá.
3. Uttamasamathasamannāgato: Có
sự nhắc nhở mình rất hoàn toàn.
+ Bậc sa-môn
thường có những thái độ và hành động sau đây:
1. Không làm hại nhân, vật nào cả. Nghĩa là,
nếu có làm hại một nhân, một vật nào hay xúi giục kẻ khác làm hại, thì người ấy
không gọi là sa-môn. Sa-môn là người đã diệt bỏ sự giết hại nhau, và ngay cả
những nói hơi khiếm nhã họ cũng không bao giờ dùng đến.
2. Không vì tư lợi. Bậc sa-môn tự thấy, nếu
còn sống ngày nào thì dùng thì giờ ấy để lo tu hành hầu mau giải thoát thôi,
không hề làm việc gì ngoài việc tu học. Bậc sa-môn không hề làm gì, nói gì đến
sự lợi lộc cho mình, ít nhất là sự mơ ước tư lợi cho mình cũng không bao giờ
nghĩ đến, và nếu có thì cố gắng diệt trừ.
3. Hành theo pháp sa-môn. Bậc sa-môn là người
xa hẳn thế tục nên không có phận sự gì có dính dáng đến thế tục, chỉ có phận sự
là dạy mình, nghĩa là luôn luôn lánh xa phiền não, cũng như người thợ vàng luôn
tìm cách lọc lấy vàng nguyên chất, vứt bỏ cặn bã dơ trong vàng.
4. Hành theo pháp Tapa. [8] Tapa nghĩa
là lửa hay là nóng, ý nói rằng thầy sa-môn luôn luôn lo diệt trừ phiền não bằng
các phương pháp như trì giới, nhẫn nại, tham thiền minh sát tuệ.
Từ sa-môn xét theo nghĩa thanh tịnh thì có 3
thanh tịnh sau đây:
- Thân thanh tịnh không
lẫn phiền não như đánh đập hay giết hại người hay thú. Bậc sa-môn ở nơi nào,
không bao giờ làm hại nơi ấy, khi đứng dưới bóng cây cũng không làm rụng một lá
cây. Đức Thế Tôn đã có lần khen đức Mục-kiền-liên rằng: Ngài là bậc có thần
thông mà không bao giờ làm phiền lòng một chúng sanh nào cả.
- Khẩu thanh tịnh nghĩa là
không bao giờ phạm vào một tiếng nói vô ích, dối trá, thêu dệt hay ác khẩu.
- Tâm thanh tịnh nghĩa là
tâm đi ngoài vòng tội lỗi, nghĩa là không để phiền não xâm nhập vào và nếu chưa
đắc quả
cao thượng thì thường nỗ lực diệt trừ phiền
não bên trong.
Phật ngôn còn dạy thêm để cho ta nhận biết
thế nào là một bậc sa-môn: Người nào biết nhẫn nại với sự đói khát,
luôn dạy mình hành theo pháp tapa (pháp nóng) biết tiết độ về vật thực và không
vì miếng ăn mà làm tội thì Như Lai gọi người ấy là sa-môn.
Vậy, người nào có đủ bốn pháp trên mới gọi là
sa-môn. Còn những từ như xuất gia và tỳ-khưuthì
chúng có những ý nghĩa như thế nào?
Xuất gia là
tiếng nói chung, chỉ các bậc trí thức trông thấy người còn có gia đình là còn
khổ, nên dứt bỏ gia đình hoặc thọ bát quan trai ở trong rừng làm đạo sĩ, hay
thọ thập giới, cũng ở trong rừng làm đạo sĩ để hành một hạnh nào theo ý của
mình - thì đều gọi là xuất gia.
Tỳ-khưu, là
âm từ phạn ngữ bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, hay nói cho dễ hiểu
hơn là xin ăn, nhưng là xin ăn cao thượng, xin ăn, nuôi mạng để thực hành theo
pháp cao thượng. Nó còn có nghĩa cao hơn, là người diệt trừ phiền não. Danh từ
tỳ-khưu chỉ có trong Phật giáo - là người xuất gia tu tập theo phạm hạnh, phải
hành theo Tứ thanh tịnh giới (Xin xem luật xuất gia của đại đức Hộ
Tông).
Chú giải có dạy rằng, nếu được gặp các bậc
sa-môn thì nên:
1. Upasaṅkamanaṃ: Đến
gần, ý nói đến hầu để học hỏi
pháp giải thoát, ngoài ra nên giúp đỡ các
ngài những gì mà chúng ta có thể làm được.
2. Upatthānaṃ: Cúng
dường tứ vật dụng đến các ngài
3. Anusāsanaṃ [9]: Nhớ
đến các ngài, ý nói nhớ đến công đức của những bậc thầy đã dạy ta và cả những
pháp cao thượng mà mình đã thọ trì.
5. Dassanaṃ: Thấy,
gặp, ý nói thấy và gặp bằng nhục nhãn khiến phát tâm trong sạch. Phát tâm như
vậy vẫn được quả báo như trong sự tích sau đây:
“- Ngày nọ, đức Thế Tôn ngự đến hang
Indasalā, có một con chim cu đang đậu bên vệ đường, trông thấy ngài có hào
quang sáng ngời, nó liền phát tâm trong sạch. Đến sáng ngày đức Thế Tôn ngự đi
khất thực, con chim cu lại bay theo, vì nó cảm thấy hoan hỷ được trông thấy
tướng hảo quang minh xán lạn của ngài. Ngày khác, chim cu thấy đức Thế Tôn ngự
đi, có chư tăng theo hầu, mỗi vị đều có lục căn thu thúc thanh tịnh càng làm cho
nó thích thú, hoan hỷ không thể tả được. Chim cu phát tâm kính thành và rất
trong sạch, không còn biết làm sao để tỏ lòng, liền bay xuống đứng giữa đường
đi, hai cánh chấp lên, đầu cúi xuống tỏ vẻ đảnh lễ đức Thế Tôn. Đức Phật
thấy vậy biết thành ý của chim cu nên ngài mỉm cười và bảo Ānanda rằng: “Nầy
Ānanda! Chú chim cu này có tâm trong sạch với Như Lai và chư tăng - là những
bậc có đức hạnh cao thượng - hết kiếp này được sanh về cõi trời và về sau, sẽ
đắc quả Độc Giác Phật, tên là Somanassa. Phước quả này mà có được thế là do
nguyên nhân được thấy, được gặp các bậc sa-môn và phát tâm kính thành, trong
sạch. »
Trong bộ kinh Bojjhaṅgasamyutta, đức Thế Tôn
có dạy rằng:
“- Này các thầy tỳ-khưu! Vị tỳ-khưu nào có
giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến đầy đủ - nếu trên thế gian
nầy, ai được gặp, được thấy các vị ấy, được hầu cận các vị ấy, được nghe lời
giáo giới, tu học hoặc xuất gia với các vị ấy - thì sẽ thâu hái được những lợi
ích vĩ đại.
Tại sao vậy? Vì khi người được nghe pháp của
các vị ấy, thọ trì pháp của vị ấy thì thân sẽ xa lánh điều ác và khẩu
cũng xa lánh điều ác và rồi thân khẩu sẽ thanh tịnh.
Khi thân và khẩu thanh tịnh thì tâm ý hằng
nhớ đến các thiện pháp, suy nghĩ các thiện pháp và hằng niệm tưởng các thiện
pháp - được gọi là Satisambojjhaṅga: Niệm giác chi - nghĩa là nhờ sự niệm
(nhớ) [11] ấy
mà giác ngộ. Niệm đây có ý nói là niệm tứ niệm xứ.
Một khi được có trí nhớ đầy đủ rồi, thì có
trí tuệ thông hiểu các pháp, khi có trí tuệ thông hiểu các pháp ráo rốt thì đắc
được Dhammavicayasambojjhaṅga [12]:
Trạch pháp giác chi nghĩa là sự suy nghĩ mà giác ngộ.
Khi cố gắng suy nghĩ các pháp được chu đáo
thì đắc được Viriyasambojjhaga: Tinh tấn giác chi, nghĩa là nhờ sự tinh tấn mà
giác ngộ. Khi sự cố gắng tinh tấn được hoàn toàn rồi, thì đắc được hỷ lạc. Đây
không phải là hỷ lạc của tình dục, hỷ lạc này sanh lên do sự tinh tấn, gọi là
Pītisambojjhaṅga [13]:
Hỉ giác chi nghĩa là hỷ lạc, là nhân giác ngộ.
Khi thầy tỳ-khưu cố gắng hành thêm nữa thì
tâm sẽ được thanh tịnh. Khi tâm được thanh tịnh thì phát sanh
Passaddhisambojjahaṅga [14]:
An tịnh giác chi, nghĩa là tâm an tịnh là nhân giác ngộ phát sanh.
Khi thân, tâm được trong sạch an vui triệt
để, chừng ấy sẽ phát sanh Samādhisambojjhaṅga: Định giác chi, nghĩa là sự an
trụ của tâm là nhân sanh giác ngộ.
Này các thầy tỳ-khưu, khi mà tâm được hoàn
toàn an trụ thì sẽ phát sanh Upekkhāsambojjhaṅga: Xả giác chi, nghĩa là sự bỏ
hết mọi việc còn có tánh cách luân hồi trong tam giới; là nhân giác ngộ phát
sanh [15].
Theo bài kinh Sampannasīlasutta trong
Pathamavagga, đức Phật có dạy rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu! Được thấy, được gặp
các vị tỳ-khưu ấy, được hầu cận các vị tỳ-khưu ấy, được ngồi gần các vị tỳ-khưu
ấy, được xuất gia theo các thầy tỳ-khưu ấy, Như Lai gọi là được rất nhiều sự
lợi ích. Tại sao vậy? Vì khi thân thiện, vào hầu, vào ngồi gần các vị tỳ-khưu
có đức hạnh thanh cao ấy - thì làm cho giới đức của ta chưa trong sạch trở nên
trong sạch, thiền định chưa thâm sâu trở nên thâm sâu, trí tuệ chưa viên mãn sẽ
được viên mãn, giải thoát chưa hoàn toàn lại được hoàn toàn, giải thoát tri
kiến chưa rốt ráo lại trở nên rốt ráo”.
Theo những lời giảng giải trên, ta hiểu: Được
gặp, được thấy các bậc sa-môn như vậy mới cao thượng, mới gọi là nết hạnh được
thấy, được gặp các bậc sa-môn. Được thấy và được gặp các bậc sa-môn bằng tuệ
nhãn như vậy mới hoàn toàn cao thượng và tuyệt đối.
+ Thấy bằng tuệ
nhãn có sáu điều thù thắng:
1. Thấy rõ thánh pháp của các bậc thánh nhơn
là: Dùng minh sát tuệ để thấy thập nhị duyên khởi và đạo quả.
2. Thấy rõ đặc ân của thánh pháp là giới,
định, tuệ và đạo quả.
3. Đạt được các pháp mà các bậc thánh nhân đã
đắc: Định tuệ và đạo quả.
4. Đã thành thánh nhơn bởi hành minh sát tuệ
thuần thục.
5. Thấy biết rõ sự thật của Niết-bàn.
6. Đắc được lục thông.
+ Được thấy,
được gặp các bậc sa-môn sẽ được những hạnh phúc là:
1. Được làm phước thiện
2. Thất bồ-đề phần phát sanh.
3. Được xuất gia theo các ngài.
5. Mắt không bị mây mù vô minh che ám.
6. Không phóng dật, dễ duôi.
7. Được cúng dường Tam Bảo.
8. Giải thoát khỏi phiền não.
9. Được đến nơi vô sanh bất diệt.
HẠNH PHÚC XXX
Kālena
dhamma-sākacchā: Tánh cách biện luận Phật pháp
theo
thời. (Tùy
thời đàm luận pháp)
Sự biện luận Phật pháp theo thời làm cho trí
tuệ tăng trưởng, làm cho tâm được an vui trở nên thấy xa, hiểu rộng. Biện luận
Phật pháp có mục đích giải cho rõ lý của Phật ngôn. Người biện luận luôn luôn
không nên lấy ý kiến - chấp thủ ý kiến - của mình. Tôi không cố ý nói rằng: Ý
kiến của con người là quấy, nhưng ý kiến ấy phải cho đầy đủ nhân quả, lý lẽ và
hợp tình cảnh mới có thể chấp nhận được. Điều cần yếu muốn biện luận Phật pháp,
trước hết ta nên bỏ lòng ngã ái tự cao, cho rằng ta đây là người thông hiểu hơn
những người có mặt nơi đây. Những vị ngã mạn như thế không chịu nghe theo ý
kiến hay lời nói đúng theo Phật pháp của người khác. 8 muôn 4 ngàn chi pháp của
Phật lưu truyền không phải là ít, ta không nên ngã mạn khi học sơ qua ba chuyện
túc sanh truyện hay ít pháp số, mà tự coi mình là bậc thông suốt lý lẽ của Phật
ngôn. Khi người có tánh tự cao, ngã ái, thì không thể biện luận Phật pháp và
không thể được an vui.
+ Biện luận
Phật pháp có năm chi là:
1. Adiṭṭhājotasākacchā: Biện
luận để hiểu thêm pháp mà mình chưa thông hiểu.
2. Diṭṭhasansandanasākacchā: Biện
luận pháp để hiểu rõ thêm pháp mà mình đã hiểu rồi. Khi ấy lợi ích phát sanh
đến ta.
3. Vimaticchedakasākacchā: Biện
luận pháp để giải sự nghi ngờ của mình.
4. Anumatisākacchā: Biện
luận pháp hầu tìm sự thật.
5. Kathetukamyatasākacchā: Biện
luận pháp bằng cách vấn đáp với bạn hay tự vấn đáp với mình.
Tóm lại: Biện luận Phật pháp là nhân đem lại
hạnh phúc, là dành riêng cho người muốn tìm lấy con đường giải thoát cho mình,
chớ không phải tranh biện để giành được sự khen ngợi của mọi người. Nói đến
biện luận Phật pháp, tôi không thể quên tích đại đức Xá-lợi-phất khi còn là
người cư sĩ.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai người bạn
rất thân, hai người đều là con trưởng của trưởng giáo bà-la-môn. Ngày nọ trong
thành Vương Xá có lễ, hai người rủ nhau đi xem.
Ngày ấy là duyên lành của hai người đã đến,
nên khi xem hát hai người đều có cảm tưởng rằng: Đời người không khác chi anh
kép hát trong một vở tuồng, khi mang râu đội mão là vua chúa, có khi vợ chồng
lại đóng làm mẹ làm cha, làm người thù nghịch, khi bỏ mão râu ra là anh kép
hát. Cuộc đời thay đổi như thế có gì gọi là vui đẹp.
Hai ông liền đem ý kiến ấy ra bàn với nhau,
thì họ đồng có ý kiến là tìm đường giải thoát ra ngoài vòng giả dối này. Vì
duyên lành chưa đến nên hai ông chưa gặp Phật. Hai ông mới vào học đạo với
ông Sañjaya. Nhờ thông minh nên hai ông học trong mấy ngày đã
thông hiểu, thấu triệt toàn bộ giáo pháp của Sañjaya. Hai ông
bảo nhau rằng: “Đây không phải là con đường giải thoát, vậy chúng ta
chia nhau đi tìm pháp giải thoát, nếu ai tìm được phải cho nhau biết”. Rồi
chia mỗi người đi một ngã.
Trong khi ấy, đức Thế Tôn đã thành đạo và đã
có 61 vị đại A-la-hán. Ngài cho mỗi vị đi mỗi phương để truyền chánh pháp. Đại
đức Assaji là một trong năm vị Kiều-trần-như đi về thành Vương
Xá, ở Trúc Lâm tịnh xá. Sáng ngày, ngài đi khất thực, ông Xá-lợi-phất gặp được
ngài và nghe ngài thuyết giảng (đoạn này đã có giải ở đoạn trước).
Sau khi nghe một câu kệ, ông Xá-lợi-phất đã
đắc Tu-đà-hoàn. Ông về thuật lại cho ông Mục-kiền-liên nghe, ông Mục-kiền-liên
cũng đắc Tu-đà-hoàn, nên hai ông mới định theo Phật giáo.
Hai ông có tâm kính thành thầy cũ là Sañjaya nên
vào khuyên ông xuất gia theo chánh pháp. Ông Sañjaya không
nghe theo và hỏi rằng: “Trong đời này người thông minh nhiều hay kẻ ngu
dốt nhiều?”.
- Thưa thầy, người thông minh ít.
- Vậy hai ông là người thông minh, hãy đi
theo thầy Cồ Đàm, còn người ngu dốt thì để lại cho ta.
Biết rằng không thể nào khuyên ông ta theo
chánh pháp được nên hai ông về Trúc Lâm tịnh xá xuất gia theo Phật.
Tùy thời thính pháp có quả báo cao thượng
không gì sánh bằng như các ngài vậy đó.
+ Biện luận
Phật pháp được những hạnh phúc sau đây:
1. Là đại phước.
2. Là người rất giỏi trong việc giải đáp sự
nghi ngờ cho những người khác.
3. Là người có nhiều trí nhớ và trí tuệ.
4. Được nghe và được học các pháp mà mình
chưa từng nghe.
5. Pháp đã học rồi nhưng chưa hiểu làm cho ta
hiểu.
6. Diệt bớt sự nghi ngờ.
7. Trở nên người chánh kiến.
8. Tâm trong sạch khi nghe pháp.
9. Là nguyên nhân cho người đắc quả cao
thượng.
10. Có thể giữ được pháp học, pháp hành và
pháp thành.
11. Có thể bố thí pháp được.
12. Làm cho Phật giáo được thạnh hành.
13. Giữ được dòng thánh nhơn (là bậc
thông Phật pháp có thể thuyết pháp cho người đắc đạo quả được).
14. Gọi là người đi theo thánh đạo.
[4] Cũng
tương tợ các chú thích 100, 101 và các chú thích khác - lời giải của pháp sư
không chính xác ngữ nghĩa đã nêu - chỉ có tính cách giảng rộng.
[5] Pháp
cú 399: Người không tức giận bao giờ. Trước lời phỉ báng - lặng tờ, nín thinh.
Dẫu cho roi trượng phạt hình. Lấy đức nhẫn nại làm binh hộ phòng. Tâm từ rải
khắp hư không.. Những kẻ như vậy xứng dòng bla-môn!
[7] Dịch
thơ PC 264, 265: Cái đầu trọc lóc phải chăng? Dối trá, vô hạnh gọi rằng sa-môn?
Gỡ bao nhơ bợn tâm hồn. Tỳ-khưu trí hạnh chánh chơn mới là (sa-môn).
[15] Thất
giác chi theo cách giải thích của pháp sư có lẽ để dành cho đại chúng có khái
niệm khái quát. Ta có thể hiểu rộng và sâu hơn một tí. Có 3 cách giả thích:
- Thất giác chi theo kinh điển, nếu giải
thích theo từng chi phần thì như sau: 1- Niệm: Chú tâm đến đối tượng. 2- Trạch
pháp: Phân tích, lựa chọn đối tượng ấy (thiện hay ác). 3- Tấn: Là tứ chánh cần
(nỗ lực ly ác, dưỡng thiện). 4- Hỷ: Hỷ này là Pīti, tức là phỉ. (Sau khi ly ác,
dưỡng thiện sẽ có một cảm giác khinh an, thư thái, dễ chịu lan tỏa trên thân -
5 pīti). 5- An: Đây là cảm giác an lạc, an tịnh tràn đầy sung mãn cả thân tâm.
6- Định: Đây là định của định hay định của tuệ - tùy thuộc thiền định hay thiền
quán. 7- Xả: Nếu thiền định thì định xả, nếu thiền tuệ thì tuệ xả.
- Thất giác chi nếu hiểu là những pháp có sẵn
trong tâm của bậc giác ngộ - thì 7 chi phần: Niệm, trạch pháp, tấn, hỷ, an,
định, xả - luôn luôn có sẵn trong và tâm vị ấy. Ví dụ, khi nhìn ngắm một đối tượng
(thiền tuệ), vị ấy có niệm, sau đó là trạch
pháp. Sau trạch pháp liền có tấn. Sau tấn sẽ có hỷ, an, định (định của tuệ) và
xả. Đây là một tiến trình tâm sẽ diễn ra trong tâm của bậc giác ngộ.
- Thất giác chi nếu hiểu là có thể tu tập
từng chi phần thì nên lưu ý: Niệm, trạch pháp, tấn có thể tu tập như một pháp
môn, như một đối tượng riêng biệt. Nhưng hỷ và an không thể tu tập vì nó là quả
chứ không phải nhân. Ở đây, khi niệm, trạch pháp, tấn đúng mức, thuần thục thì
sẽ có hỷ và an. Tương tợ vậy, trong thiền định, khi tầm tứ đúng mức, thuần thục
- sẽ phát sanh hỷ và an; sau an lạc thâm sâu sẽ có định: Cận hành định và an
chỉ định. Lên đến tứ thiền thì chỉ còn định và xả. Các bậc thánh nhân có định
tuệ thâm sâu, vô lậu tâm, vô lậu trí, lúc giáo tiếp, ứng xử, nhìn ngắm các pháp
- họ luôn có tiến trình tâm với 7 yếu tố giác ngộ này nên gọi là thất giác chi
hay thất bồ-đề phần. (Họ luôn hưởng hạnh phúc của lạc, định, xả).